Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

CÁI GIÁ CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC…!

 


Theo thống kê sơ bộ, cả nước có tổng cộng:

+ 1.146.250 liệt sĩ

+ Trong đó 191.605 người hy sinh trong kháng chiến chống Pháp

+ 849.018 người hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ,

+ và 105.627 người nằm xuống trong các chiến dịch khác bảo vệ Tổ quốc (như chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo…).

Ngoài ra, đến hiện nay còn:

- Hơn 200.000 hài cốt liệt sĩ vẫn chưa được tìm thấy trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia...

- Cả nước có gần 800.000 thương binh và người được hưởng chính sách thương binh.

- Hơn 300.000 hài cố.t liệt sĩ chưa xác định được danh tính, tên tuổi, quê quán, đơn vị.

- Hơn 300.000 người hoạt động kháng chiến và có con đẻ bị nhiễm chất độc da cam dioxin.

- Gần 800.000 thương binh và người hưởng chính sách thương binh trên cả nước.

Quảng Nam là tỉnh có nhiều liệt sĩ thứ hai (sau Hà Nội) với 65.000 người hy sinh trong các cuộc chiến. Ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh.

Huyện có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (cũng tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sĩ.

Quảng Nam cũng là tỉnh có nhiều Bà mẹ VNAH nhất với 11.658 mẹ…!

St

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

Đề Thám – Người anh hùng hay thằng giặc ?

Mathilde Tuyết Trần



Trong Chương XV – Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ – của quyển Cận Kim Thời Đại trong bộ Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim chỉ ghi lại vẻn vẹn trong một dòng về Đề Thám như sau:

Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết….Quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng Cao Khải đi đánh dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lãnh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.”

Theo lời giới thiệu trên báo chí Việt Nam, Claude Gendre là cháu nội của Jean Gendre, một người lính trong quân đội viễn chinh Pháp đã từng chiến đấu ở Việt Nam cùng thời với giai đoạn Đề Thám. Trên đường đi tìm lại kỷ niệm của ông nội, Claude Gendre đã “vấp” phải nhân vật lịch sử Đề Thám, làm cho ông say mê tìm tòi, rồi viết thành sách. 

Trong khi chờ đợi cuốn sách ” Le Dê Thám -1858-1913– Un résistant vietnamien à la colonisation francaise ” của tác giả Claude Gendre xuất bản vào giữa tháng tư năm 2007 tại nhà xuất bản L‘Harmattan (1), với lời tựa của ông Charles Fourniau, giá bán là 19,50 euros, đã được đặt mua tại một tiệm bán sách của một thành phố nhỏ, tôi lục lọi trong tủ sách nhà, moi ra được vài tài liệu có liên quan đến Đề Thám, mà tôi chưa có dịp sử dụng.

Cũng may thay, tôi có dịp được trao đổi trực tiếp với Claude Gendre, chính ông đã có nhã ý gọi điện thoại cho tôi, nên khi viết bài này, trong đầu tôi đã có ý thiên vị tác giả. 

Ông cho tôi biết, Jean Gendre, nếu không bị thương và được chuyển về Pháp, có lẽ đã ở lại suốt đời tại Việt Nam. Ý thích của ông nội, vừa thích con người, vừa yêu mến cảnh, thích từ tiếng nói cho đến bữa ăn hàng ngày của Việt Nam, đã gây ấn tượng và gợi trí tò mò cho người cháu. Đến lượt Claude Gendre, sau khi đã qua thăm Việt Nam mấy lần, ông cũng nói với tôi rằng: “Comme mon grand‘père, je suis tombé amoureux du Viet Nam” (Giống như ông nội tôi, tôi đâm ra yêu mến Việt Nam). 

Claude Gendre không có vẻ bài bác ý định tôi dịch cuốn sách của ông ra tiếng Việt, nhưng trong khi chưa có quyết định cụ thể, vì phải tôn trọng luật lệ bản quyền của tác giả và nhà xuất bản, cho nên trong phạm vi bài bình luận này, tôi không được phép trích hay dịch nguyên văn của Claude Gendre viết trong sách. 

Cảm giác về thời đại Đề Thám 

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Số đặc biệt 10 năm Văn Việt: Những kỷ niệm thời trước Văn Việt

Thụy Khuê



Năm 2014, anh Nguyên Ngọc sang Pháp, đến thăm và rủ tôi viết cho Văn Việt, dĩ nhiên tôi nhận lời. Nhưng trước hay sau đó, anh Hoàng Hưng cũng đã gửi email và tôi cũng ưng thuận ngay. Đây là tờ báo mạng mà chúng tôi chờ đợi: dựng ở trong nước, in bài cả trong lẫn ngoài nước, không bè phái, không tiêu chuẩn, trừ sự đúng đắn và trung thực.

Tuy nhiên đầu mối thân tình của tôi với hai nhân vật chính tạo nên Văn Việt đã có từ hơn ba mươi năm trước. Mấy dòng viết nhanh tại Vũng Tàu hôm nay, để hồi tưởng lại chút kỷ niệm xưa, mặc dầu trí nhớ đã bắt đầu suy tàn, như lời Nguyễn Bình Phương.

Tôi "quen" anh Nguyên Ngọc kể từ khi anh xúc tiến việc Đổi mới [*] trên tuần báo Văn Nghệ, đăng những bài tiểu luận sắc bén đòi hỏi tự do tư tưởng của Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Khắc Viện... và những sáng tác mới của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài... đó là những tên tuổi đầu tiên, đã khiến những người làm văn học ở ngoài nước, như chúng tôi, sửng sốt, khâm phục.

Và cũng từ đó chúng tôi "kết bạn" với các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, chưa bao giờ gặp gỡ, nhưng đã rất thân, qua chữ nghiã. Chúng tôi đã "hòa hợp hòa giải dân tộc" không thông qua bất cứ một kênh thúc đẩy hay một cầu nối nào.

Sự tình bắt đầu như thế, từ hơn ba mươi năm nay.

Mùa thu năm 1993, tôi về Việt Nam, sau sáu năm cầm bút, ba năm phụ trách chương trình văn học nghệ thuật hàng tuần của đài RFI; lần đầu tiên gặp Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Văn Cao, Hoàng Cầm, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến... ở ngoài Bắc; Hoàng Hưng, Lữ Phương, Nguyễn Đăng Mạnh... ở trong Nam, từ đó sợi dây truyền cảm giữa chúng tôi chưa bao giờ phai lạt.

Người gây cho tôi cảm giác lạ thường là anh Trần Độ. Hôm ấy hai anh Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dẫn tôi đến buổi họp mặt nhân dịp giỗ Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh, có anh Trần Độ tham dự. Trong lúc không ngờ nhất, anh sai một người đặt vào tay tôi tấm thiệp nhỏ ghi địa chỉ anh, nếu tôi nhớ không lầm, ở phố Trần Hưng Đạo, trong có hàng chữ viết tay: Cô đến anh sáng mai, ... giờ. Tôi đến gặp người anh hùng như tôi thầm nghĩ, vóc cao, vai rộng, giọng đầy quyền uy. Bên cạnh Tướng quân có một vị chừng như "bảo vệ", mặt âm u. Trần Độ phớt lờ như không, thủng thẳng nói những điều hệt như anh viết: Ta cần phải đổi mới tư duy, chính sách xã hội phải coi con người là mục tiêu chứ không phải là công cụ của cách mạng... Cuối cùng anh bảo tôi: Cô và các bạn ở hải ngoại có thể tiếp sức với trong nước thực hiện những điểm anh vừa đề xuất...

Nguyên Ngọc bị cách chức tháng 12 năm 1988. Trần Độ bị cách chức tháng 6 năm 1989.

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2024

Vài lời trao đổi với PGS-TS Nguyễn Anh Tuấn

 Nguyễn Đình Cống

Vừa qua tôi đọc được bài của PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn, có đầu đề “Sự phát triển của kinh tế Việt Nam và nhiệm vụ của giáo dục-đào tạo”. Kèm theo đầu bài có tiêu đề “Hội thảo Quốc tế - Đóng góp của Khoa học xã hội nhân văn trong phát triển kinh tế xã hội” (1).

Nhận thấy vấn đề được quan tâm là đúng, hay, có tính thời sự  nên tôi đã xem đi, xem lại vài lần. Bài gồm 4 mục

1. Tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm qua.

2. Những thách thức đối với tăng trưởng  kinh tế Việt Nam.

3. Mô hình tăng trưởng và vấn đề phát triển nguồn nhân lực.

4. Thực trạng giáo dục Việt nam và nhiệm vụ.

Khi chỉ mới xem qua một lần thì thấy bài viết  đã nêu ra được thực trạng của nền kinh tế và giáo đục, đề ra được những việc cần quan tâm. Tuy nhiên, khi đọc và phân tích kỹ  mới thấy lộ ra một số ý kiến cần trao đổi với những người có trách nhiệm hoặc quan tâm (trước hết là với TS. Tuấn),  hy vọng có được cách nhìn và đặt ra nhiệm vụ đúng.

Thứ nhất là sự “Đổi mới”. 

Năm 1986, dùng từ đổi mới để nói lên tinh thần ci cách của lãnh đạo Đảng là phù hợp, chấp nhận được. Nhưng đến bây giờ, đã đến lúc cần gọi đúng bản chất của sự kiện là sửa sai. Gọi theo hai cách là nhằm hai mục đích khác nhau. Mà cách gọi chệch chỉ nên xem là tạm thời, còn về lâu dài cần phải gọi đúng bản chất thì mới có cách phát triển chinh xác. Lãnh đạo Đảng, vì lý do nào đó chưa dám công nhận “sửa sai”, nhưng một người trí thức như PGS. Tuấn mà vẫn cố tình dùng sai khái niệm thì thật đáng tiếc.

“Trở về với Phật giáo nguyên thủy” trong đời sống hiện tại

2:14 | Posted by BVN1

Mạc Văn Trang



Đây là câu chuyện tôi muốn kể với các bạn về TỲ KHEO THÍCH BẢO NGUYÊN Ở MỘT “CHÙA NGHÈO” TU NGŨ MINH.

Hồi đầu tháng 10/2021 tôi bị F0 covid 19, nhưng không chịu đi tập trung, cố thủ trong phòng (Thực ra lúc đó lãnh đạo TP đã nới lỏng, nên mới chống được lệnh cưỡng chế).

Do mình bình tĩnh, vợ chăm sóc hết lòng và dùng thuốc của BS Đại, do Nghiên, con gái đỡ đầu gửi đến, nên vượt qua dễ dàng. Một người bạn gửi cho thuốc Nam để uống và thuốc nhỏ mũi, nói là thuốc của Thầy Thích Bảo Nguyên, chữa Covid tốt lắm. Nhưng đã đỡ nên tôi chỉ dùng thuốc nhỏ mũi…

Sau 15 ngày thì thấy dường như hết bệnh. Tôi đi bộ ra Trạm xá xã để Test kiểm tra, lấy Giấy chứng nhận đã khỏi bệnh Covid 19. Đi chậm chừng 30m thấy mệt, đi nhanh dăm bước là tức thở phải dừng lại…Rất vất vả mới đến chỗ xét nghiệm và lấy Giấy chứng nhận, chừng hơn 2km. Lúc về phải ngồi xe ôm.

Thì ra “Hậu covid” ảnh hưởng đến nhiều thứ, nhất là Phổi. Lúc này tôi mới dùng thuốc uống của Thầy Bảo Nguyên; đó là thứ rượu thuốc, pha “1 nắp chai” với nước ấm và uống sáng, chiều sau ăn.

Uống vào thấy ho nhiều và ra đờm liên tục, rất khó chịu. Tôi bảo, thuốc quái gì, uống vào bệnh lại nặng thêm? Sau nghĩ ra, có lẽ ho, ra đờm nhiều là chữa bệnh, làm sạch phổi, nên cứ uống tiếp. Phải sau chừng 2 tháng, uống thuốc, luyện đi bộ, đập lưng, khí công, mới phục hồi gần được như trước khi bị bệnh.

Cuối năm 2023, Kim Chi liên hệ được với cô Phước, người đã chuyển thuốc của Thầy Bảo Nguyên cho người bạn của chúng tôi, để đưa cho tôi. Ngày 2/1 vợ chồng tôi cùng vợ chồng cô Phước đi thăm Thầy Bảo Nguyên.

Bố cáo nhân 10 năm ra đời của Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng

09:14 | Posted by BVN4

Câu lạc bộ (CLB) Lê Hiếu Đằng được thành lập tính đến nay đã tròn 10 năm (10/2/2014 – 10/2/2024).

1. Bối cảnh ra đời

Lê Hiếu Đằng là Thủ lĩnh phong trào đấu tranh của sinh viên Sài Gòn và các đô thị miền Nam trước 1975. Ông từng bị nhà chức trách Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình. Sau 1975 ông là luật sư, chức vụ trong chính quyền là Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Lê Hiếu Đằng mất ngày 22/1/2014 (nhằm 22 tháng Chạp Quý Tỵ). Trong thời gian trọng bệnh, ông đã chia sẻ những nỗi niềm trăn trở, những lời tâm huyết với các bạn bè về thực trạng đất nước và những sai lầm của đảng cầm quyền đi ngược lại ý nguyện và những đóng góp của những người đã xây dựng lên chế độ, trong đó có ông.

Lê Hiếu Đằng là một trong 72 người đầu tiên đã kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 2013. Ông cũng là người đi đầu trong các cuộc biểu tình tại thành phố Hồ Chí Minh chống Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam. Ông lớn tiếng phê phán chính quyền đã vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền khi trấn áp những người Việt Nam yêu nước biểu tình chống Trung Quốc xâm lược biển đảo. Lê Hiếu Đằng đã trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước chống xâm lăng đấu tranh ôn hòa chống độc tài, đòi dân chủ và đa nguyên cho Việt Nam.

Trung thành với những di sản, tâm nguyện của Lê Hiếu Đằng, sau khi ông mất, ngày 10/2/2014, các đồng đội cũ của ông đã họp mặt tại công viên Văn Thánh, TP. Hồ Chí Minh, chính thức thành lập CLB Lê Hiếu Đằng và bầu bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ nhiệm câu lạc bộ. Ba năm sau, Hội nghị ngày 19/2/2017 bầu ông Lê Thân, bạn chiến đấu của ông Lê Hiếu Đằng làm Chủ nhiệm.

2. Mục đích / Sứ mệnh của CLB

Thứ Năm, 11 tháng 1, 2024

BẠN CẦN BIẾT : MỌI SỰ GHI CHÉP CẦN THEO ĐÚNG TRÌNH TỰ THỜI GIAN TRÁNH "RÂU ÔNG NỌ CẮM CẰM BÀ KIA"!

Matthew Chuong

 


I. DẪN NHẬP

1a) Đọc thấy trên một số báo ghi: "(...) Trương Định đóng quân tại Đám Lá Tối Trời ở làng Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang".

Sao, Trương Định lập căn cứ trong ... năm 1976 hả? Bởi vì, quí bạn chú ý, tên gọi "tỉnh Tiền Giang" CHỈ mới xuất hiện từ tháng 2/1976 mà thôi; trước đó ở vùng này theo dòng lịch sử KHÔNG hề có tên gọi "tỉnh Tiền Giang".

Viết đúng phải là "(...) ở làng Gia Thuận, thuộc Gò Công, tỉnh GIA ĐỊNH" (rồi mở ngoặc ghi chú: nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Vì, vào năm 1861 khi tướng quân Trương Định lập căn cứ, Gò Công bấy giờ thuộc tỉnh Gia Định đó đa! (sau này, Gò Công còn thay đổi nhiều bận về địa giới hành chánh)

1b) "Đám tang của chí sĩ Phan Châu Trinh, tháng 3 năm 1926, là môt sự kiện gây chấn động trong lòng nhân dân thành phố HCM". Ắt quí bạn thấy sai, ngay lập tức! Ghi đúng, phải là "...trong lòng người dân SÀI GÒN". Đâu phải vì hiện nay gọi "TP.HCM" (đổi tên từ tháng 7/1976), rồi đem cách goi này úp chụp trên dòng thời gian trước đó.

1c) Đọc thấy ghi quấy quá, như ri: "Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, mở ra thời kỳ tự chủ lâu dài cho đất nước. Năm 939, ông xưng vương, đặt kinh đô tại Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội) => Cái rồi, đọc thấy có những ý kiến bàn luận cho rằng Hà Nội đã được chọn là kinh đô từ buổi đầu độc lập! Hả? Bình luận KHÔNG trúng lich sử gì hết!

Thứ Tư, 3 tháng 1, 2024

Tiếng Việt: Niềm tự hào của chúng ta

 Nguyễn Hải Hoàn



Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói / Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ / Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa / Óng tre ngà và mềm mại như tơ…” (Thơ “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ).

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi, tiếng ru muôn đời … Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi… (Bài hát “Tình ca” của Phạm Duy).

Chẳng rõ ngoài tiếng Việt ra, trên thế gian này còn có thứ tiếng dân tộc nào được cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ ca ngợi bằng những lời lẽ nghĩa lý sâu xa, tình cảm thắm thiết đến thế? Ắt hẳn tiếng Việt phải có khả năng tạo nên một sức hút kỳ diệu khiến trái tim các nhà nghệ sĩ rung lên phát ra thành lời thơ mượt mà, điệu nhạc du dương như trên. Là những người có giác quan nhạy cảm trước mọi cái đẹp, cái vượt trội, các nghệ sĩ bẩm sinh có khả năng nhận ra những cái người thường khó nhận thấy. Mấy câu ca lời thơ trích dẫn ở trên chứng tỏ điều đó.

Lưu Quang Vũ mở đầu bài thơ ca ngợi tiếng Việt bằng một nhận xét tinh tế, chính xác, khiến các nhà ngôn ngữ học bậc thầy cũng phải ngạc nhiên: “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói”. Nhà thơ muốn nhắc lại một sự thật lịch sử quan trọng mà các học giả ta ít để ý tới: Cách đây hơn 2000 năm, trước ngày chữ Hán chính thức vào Việt Nam theo chân đội quân của Triệu Đà, người Việt chưa hề biết chữ viết là gì, còn người Hán đã sử dụng chữ viết được hơn nghìn năm. Thế nhưng hồi ấy tổ tiên ta đã làm chủ một ngôn ngữ nói hoàn thiện, chín muồi tới mức “vẹn tròn”, có các ưu thế như ngữ âm cực kỳ phong phú, phát âm thống nhất trong cả nước, thích hợp dùng chữ viết biểu âm, được toàn dân yêu quý gìn giữ như một vật báu – đó là tiếng Việt.

Tiếng mẹ đẻ của dân tộc ta có đặc điểm nổi trội nhất  ngữ âm cực giàu, ví dụ số âm tiết (syllable) nhiều gấp hơn chục lần tiếng Hán. [1] Vì thế tiếng Việt khác hẳn và không chung nguồn gốc với tiếng nói của các chủng tộc láng giềng phương Bắc, là những ngôn ngữ nghèo ngữ âm. Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), tiếng Hán và tiếng các tộc Bách Việt thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan) hoặc Tai-Kadai. Đây là một trong những căn cứ để suy ra cộng đồng người nói tiếng Việt là cư dân bản địa chứ hoàn toàn không phải là cư dân di cư từ phương Bắc tới. [2]

Thứ Ba, 2 tháng 1, 2024

KHÔNG THỂ NÀO QUÊN ( thơ )

 Nguyễn Thị  Lan Phương - 

Tặng các bạn lớp mình

 


Bao khao khát mong ngày ta trở lại

Cùng bạn bè vui dưới mái trường xưa

Ôi! Năm mươi năm thấm thoát thoi đưa

Sơn La quê mẹ nắng mưa nhọc nhằn

 

Ngày họp lớp các bạn ta nhủ nhắn

Nhớ về thơ ấu muối mặn cay gừng

Ta về cùng nhau tay bắt mặt mừng

Nhớ Nậm La thuở ngập ngừng xa xưa

 

Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023

Ngày trở lại ( thơ )

 

NGÀY TRỞ LẠI

       Kính tặng các thế hệ thầy cô giáo và các bạn học sinh Trường THPT Tô Hiệu, TP Sơn La.

Nguyễn Thị Lan Phương, k70-73.

 




Về gặp nhau sau năm tháng chia xa

Suốt chặng đường đầy phong ba vất vả

Dù gian khó không bao giờ gục ngã

Lớp chúng mình hối hả khắp ngả đường

 

Những cô gái dáng duyên trước giảng đường

Bao chàng trai vùng biên cương chống giặc

Mặt trận nào lớp mình đều xuất sắc

Cứ trong veo giữa trầm mặc dị kỳ